Chủ Nhật, 27 tháng 9, 2015

Câu chuyện về chuẩn bị kỹ năng ngoại ngữ

Tầm nhìn lãnh đạo với phát triển nguồn lực doanh nghiệp thời kỳ hội nhập - câu chuyện về chuẩn bị kỹ năng ngoại ngữ

Từ khi Việt Nam mở cửa hội nhập với thế giới, tầm quan yếu của việc học ngoại ngữ chưa bao giờ lại được nhắc tới nhiều như trong thời buổi hiện nay. Theo đánh giá của nhiều chuyên gia kinh tế, sau năm năm gia nhập WTO, năng lực cạnh tranh của đơn vị Việt Nam đã được cải thiện hơn so với thời kỳ trước đó. Tuy nhiên, sức cạnh tranh của cơ quan Việt vẫn còn thấp, độ ổn định chưa cao. Một trong những nguyên nhân đang hạn chế sự hội nhập của đơn vị Việt là khả năng ngoại ngữ của nhân viên và quan trọng hơn chính là tầm nhìn của lãnh đạo cho hội nhập, mối quan hệ cơ hữu giữa một tầm nhìn rộng chuẩn bị cho một lực lượng cần lao chất lượng cao, giỏi ngoại ngữ và khả năng hội nhập và cạnh tranh trên thị trường quốc tế.

   Vì vậy, nghiên cứu của chúng tôi xuất hành từ vấn đề thực tế này, với mong muốn kiểm tra hiệu quả tình sự trong việc định hướng phát triển doanh nghiệp, dưới góc độ tầm nhìn của lãnh đạo, trong việc khuyến khích nhân sự phát triển, hoàn thiện kĩ năng, cụ thể là kĩ năng ngoại ngữ. Kết quả khảo sát tiến hành trên số lượng lớn người đi làm về nhu cầu học tiếng Anh, cùng những san sớt thực tiễn từ lãnh đạo công ty, đã cho thấy đang tồn tại khoảng cách lớn giữa nhu cầu học ngoại ngữ của viên chức với tầm nhìn của lãnh đạo trong khuyến khích cấp dưới phát triển kĩ năng ngoại ngữ. Điều này đặt ra một câu hỏi về việc liệu tầm nhìn của lãnh đạo đối với phát triển nguồn lực nhân sự có tương tác như thế nào tới hiệu quả hoạt động của cơ quan thời kỳ hội nhập.

1. Tầm quan trọng của việc học ngoại ngữ
   Trong cuộc sống đương đại hiện thời, ai cũng biết ngoại ngữ là cấp thiết. Thế nhưng, để thật sự cảm nhận tầm quan yếu của nó, không ít người đã phải đúc rút từ những thất bại xương máu của bản thân. Thí dụ có thể kể đến như, thiếu kĩ năng giao tiếp, thương thảo bằng ngoại ngữ, nhân viên kinh doanh khó làm việc với đối tác nước ngoài, từ đó không bảo đảm hiệu quả công tác, thậm chí làm mất thời cơ kinh doanh cho doanh nghiệp. Hay như viên chức công ty được cử đi tham dự hội thảo, triển lãm quốc tế nhưng không trang bị kĩ năng ngoại ngữ cần thiết, không tự tin giao dịch, thương thuyết với đối tác nước ngoài, làm liên quan đến công tác cũng như uy tín đơn vị. Môi trường làm việc hàng ngày chưa có nhiều nhân tố nước ngoài vô hình chung tạo nên tâm lý cho rằng ngoại ngữ chưa cấp thiết trong nhiều người đi làm. Ngoại giả, bây giờ, hàng ngày vẫn xảy ra nhiều trường hợp khi hiệu quả hoạt động kinh doanh của nhân viên cũng như đơn vị bị hạn chế do không vượt qua rào cản của tiếng nói.
   Đối với doanh nghiệp, nguồn cần lao chất lượng cao và giỏi ngoại ngữ trước tiên giúp đơn vị tự tín trong giao dịch với đơn vị, đối tác nước ngoài; giúp vấn đề thương thuyết, thương thảo diễn ra chủ động. Xa hơn nữa, một hàng ngũ nhân viên giỏi ngoại ngữ giúp tăng khả năng cạnh tranh cũng như ứng phó nhanh với bất ổn trong môi trường kinh doanh toàn cầu. Đồng thời, chính nguồn cần lao ấy sẽ mang lại nhiều thời cơ hợp tác với nước ngoài, tối ưu hoá quá trình chuyển giao công nghệ và tri thức. Đặc biệt, nguồn nhân công giỏi ngoại ngữ còn có thể học hỏi nhanh cách làm việc, quản trị, văn hoá đơn vị nước ngoài, từ đó tuyển lựa và bổ sung, giúp hoàn thiện hơn bộ máy vận hành trong công ty nội địa.

2. Đánh giá về nhu cầu học ngoại ngữ của người đi làm
   Trong khoảng thời gian từ tháng 7 tới tháng 8 năm 2012, các tác giả đã tiến hành nghiên cứu về nhu cầu học tiếng Anh đối với người đi làm phê chuẩn khảo sát, điều tra trực tuyến (E-survey). Có tất cả 188 bản khảo sát được thu về, với sự tham dự đóng góp quan điểm của thành viên 149 công ty, cốt yếu trên địa bàn Hà Nội. Trong tổng số kết quả thu về, 31.9% là nhân viên kinh doanh, còn lại trải đều trong nhiều vị trí công việc khác nhau. Số lượng nhân viên trong lĩnh vực CNTT chiếm số đông với 28.72% tham dự khảo sát. Ngoài ra, lĩnh vực hoạt động, công việc của đối tượng tham dự cũng khôn xiết đa dạng, có thể kể đến như: giáo dục, truyền thông, nhà băng, bảo hiểm, du lịch, dịch vụ, viễn thông, cơ khí,vv.Theo kết quả khảo sát, 99% nhận thấy tiếng Anh rất cấp thiết cho người đi làm. 90% chia sẻ phương thức học cốt yếu của họ là tự học, 48% đã từng hoặc đang tham gia học tiếng Anh tại trung tâm. Trả lời về lý do chưa tham gia học tại trọng tâm, 48% cho biết họ chưa xếp đặt được thời gian. Song song, với những người từng học tại trọng tâm, họ cũng gặp nhiều khó khăn trong việc tiếp cận và học tập ngoại ngữ.
   Từ phân tách kết quả khảo sát, có thể nhận thấy gần như tất cả những người đi làm đều tinh thần được tầm quan trọng của tiếng Anh trong công việc. Ngoại giả, vì tự học là cốt yếu, nên người cần lao còn gặp nhiều khó khăn trong việc phát triển kĩ năng ngoại ngữ cá nhân. Lý do chưa thu xếp được thời gian cũng một phần lên đường từ duyên cớ, đơn vị hoàn toàn chưa đóng một vai trò khuyến khích hoặc chủ động tương trợ viên chức trau dồi khả năng ngoại ngữ, nếu không muốn nói là số lượng doanh nghiệp tiến hành tập huấn nội bộ về ngoại ngữ cho viên chức còn chiếm một số lượng rất nhỏ.

3. Kiểm tra nhu cầu thực tiễn về việc huấn luyện ngoại ngữ với tư cách là người lãnh đạo
   Để đối chiếu nhu cầu của người đi làm và quan niệm của người lãnh đạo cơ quan, nhóm tác giả đã tiến hành phỏng vấn 5 lãnh đạo từ 5 doanh nghiệp thuộc các ngành: nhà băng, CNTT, bất động sản, phát triển cộng đồng, nước tiểu khát. Trong đó có 3 cơ quan có quy mô vừa và nhỏ (20 viên chức), 2 công ty với quy mô lớn (trên 300 người). Tuy thời kì khảo sát diễn ra ngắn và số lượng doanh nghiệp khảo sát là không nhiều nhưng kết quả đưa ra cũng đã phản chiếu phần nào thực tế hiện nay của đơn vị Việt Nam.
   Kết quả khảo sát cho thấy, chừng độ ảnh hưởng của lãnh đạo doanh nghiệp đối với việc nhân viên học ngoại ngữ phụ thuộc rất nhiều từ các yếu tố : lĩnh vực hoạt động, quy mô, chiến lược kinh doanh và phạm vi hoạt động của doanh nghiệp. Tùy thuộc vào tình hình thực tế của doanh nghiệp mà các lãnh đạo sẽ có chừng độ quan hoài khác nhau đối với việc khuyến khích nhân sự trau dồi ngoại ngữ.

4. So sánh, kiểm tra từ kết quả khảo sát và phỏng vấn
   So sánh, đối chiếu kết quả khảo sát nhu cầu học tiếng Anh của người đi làm với phỏng vấn từ một số lãnh đạo về thực tại học ngoại ngữ trong doanh nghiệp và tầm nhìn phát triển trong thời kì tới, có thể thấy đang tồn tại một khoảng cách giữa nhu cầu học ngoại ngữ của người lao động với tầm nhìn của những người đứng đầu công ty trong việc khuyến khích nhân sự phát triển kĩ năng ngoại ngữ. Đối với nhân sự, việc chưa được khuyến khích học ngoại ngữ bằng những chính sách cụ thể cho thấy động lực tương tác hiệu quả cần lao của doanh nghiệp còn hạn chế. Đối với công ty, việc lãnh đạo có tầm nhìn trong xây dựng chiến lược phát triển, cụ thể là đẩy mạnh tăng cường chất lượng nguồn nhân công, đóng vai trò tiên quyết, quyết định sự thành bại của cơ quan, không chỉ trên thị trường nội địa, mà còn trên sân chơi quốc tế, đặc biệt trong thời kỳ hội nhập hiện nay.

   Một thí dụ điển hình có thể kể tới là tập đoàn viễn thông quân đội Viettel. Doanh nghiệp kinh tế quốc phòng 100% vốn quốc gia. Trong năm 2011, khi kinh tế Việt Nam vẫn đang trong thời kì khó khăn, Viettel vẫn tăng trưởng đều và là công ty có lợi nhuận lớn thứ 2 trong toàn bộ gần 500,000 đơn vị đang hoạt động. Đặc biệt, năm 2011, mức doanh thu hoạt động đầu tư nước ngoài của Viettel đạt trên 10.000 tỷ đồng (xấp xỉ 500 triệu USD), với việc vươn xa hoạt động ra 5 nhà nước. Từ những kết quả đạt được, có thể thấy Viettel là một trong những đơn vị ở đó cho thấy hiệu quả trong việc định hướng cho doanh nghiệp theo tầm nhìn lãnh đạo. Yêucầu về kĩ năng, đặc biệt là kĩ năng ngoại ngữ được đặt ra từ những bước tuyển dụng trước hết khi vào tập đoàn. Các chính sách với nhân viên đi nước ngoài linh hoạt,vừa mang tính khuyến khích vừa có tính bắt buộc, huy động được toàn bộ nhân viên có ý thức chuẩn bị sẵn sàng công tác trong môi trường ngoại quốc. Trong nước, do ngoại ngữ là một trong những nhân tố quan trọng kiểm tra trình độ của viên chức, Viettel đã tạo nên tinh thần học tập vừa là nhu cầu tự thân vừa là điều kiện bắt buộc với mỗi cá nhân trong tập đoàn. Trong thời kì 2007-2012, tổ chức Đoàn thanh viên Viettel đã tổ chức 758 lớp học thanh niên, cùng nhau tập huấn nghiệp vụ sinh sản kinh doanh, kỹ thuật ngoại ngữ, tin học. Ban lãnh đạo luôn cố gắng tạo điều kiện, khuyến khích nhân sự học phê duyệt phương thức học đa dạng, phong phú, tiện lợi, ăn nhập với từng công ty, VD: đưa công nghệ E-learning vào tập huấn và phục vụ thi trực tuyến, đào tạo tiếng Anh qua điện thoại duyệt y tin nhắn…Các ý tưởng đóng góp cho công tác tập huấn ngoại ngữ luôn được khuyến khích nhằm phục vụ cho việc hoàn thiện kĩ năngcho toàn bộ viên chức trong tập đoàn.

5. Từ kết quả nghiên cứu bước đầu và phê chuẩn trường hợp của Viettel
   Bài học thành công của Viettel là minh chứng rõ ràng cho việc tầm nhìn đúng đắn của những người đứng đầu doanh nghiệp trong việc khuyến khích nhân viên phát triển các kĩ năng, đặc biệt về ngoại ngữ, có thể đem tới thành công cho cá nhân lao động cũng như toàn thể cơ quan ở bất kỳ tình hình kinh tế nào. Còn lại, độ sáng  tối trong ngày mai doanh nghiệp thời gian sắp tới, chúng tôi xin dường lại công việc này cho người lãnh đạo, những người hoạ sĩ, những thuyền trưởng đang trực tiếp chèo chống con thuyền đơn vị trên con đường hướng thẳng ra đại dương kinh tế thế giới.
Kỷ yếu ngày nhân sự Việt Nam
Nguyễn Thị Lan Anh
Nguyễn Ngọc Hưng
(trung tâm đào tạo Ngắn hạn và tư vấn ISCSC Khoa Quốc tế Đại học nhà nước thủ đô)
Bí quyết để viên chức hết mình với công tác
Quản lý nhân viên luôn là một bài toán khó và nó đòi hỏi ở nhà quản trị không chỉ trình độ, kỹ năng, kinh nghiệm mà còn ở sự nhạy bén. Để giải được bài toán khó này, đôi khi nhà quản lý phải biết được cách để viên chức phấn đấu “hết mình” vì công tác.

Mức lương “ăn nhập”

Đối với bất kỳ công việc nào, lương bổng luôn là một trong những yếu tố quan trọng hàng đầu ảnh hướng đến quyết định đi hay ở và mức độ cống hiến của viên chức. Khi nhận được một mức lương hợp lý và có thể bảo đảm cuộc sống, nhân sự sẽ cảm thấy toại nguyện để dốc vô cùng mình, toàn tâm toàn ý với công tác. Trái lại, khi nhận được mức lương không xứng đáng với khả năng và kỳ vọng, nhân sự sẽ cảm thấy “bất mãn” và sớm hay muộn, họ cũng sẽ rời đi công tác.

Thời cơ phát triển nghề nghiệp

công việc không chỉ mang đến nguồn thu nhập. Công tác còn là cơ hội để nhân viên học hỏi và phát triển. Theo nhiều kết quả khảo sát cho thấy, công tác quá nhàm chán và không có cơ hội phát triển là duyên do lớn thứ 2 khiến nhiều viên chức ra đi vị trí của mình.

Học hỏi thêm kiến thức và tích lũy kinh nghiệm là những cách nhân viên cố gắng để đạt được sự thăng tiến trong công việc. Chính cho nên, nhà quản trị nên tổ chức các khóa học nâng cao nghiệp vụ và kỹ năng cho nhân sự, khuyến khích các viên chức học hỏi các kỹ năng mới. Không học hỏi được điều mới hoặc cứ mãi làm một nhiệm vụ khiến nhân sự dễ chán nản và đánh mất động lực làm việc.

Lãnh đạo tốt

Theo kết quả khảo sát của các chuyên gia trong ngành quản trị nhân sự, phần đông viên chức có năng lực từ chức xuất phát từ những mâu thuẫn và dị đồng với lãnh đạo. Lãnh đạo thường là người có nhân kiệt, uy tín và đóng vai trò kết nối các thành viên của tổ chức với hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh. Chính cho nên, một lãnh đạo tốt và tâm lý sẽ là động lực chính thúc đẩy sự đóng góp, cống hiến của các thành viên trong doanh nghiệp. Đó không phải là người luôn ở trên cao và chỉ biết “chỉ tay năm ngón” mà còn là người hiểu rõ mình nên như thế nào, cần làm gì, hiệu quả tới đâu, biết “điều binh khiển tướng” khiến các nhân viên “tâm phục khẩu phục”

Lý tưởng và niềm tin

mặc dù bị coi là những khái niệm “viển vông” và không thực tại, bên cạnh đó lý tưởng và niềm tin luôn đóng vai trò quyết định trong chiến lược phát triển của mỗi tổ chức, cá nhân.

Lý tưởng giúp con người có định hướng cụ thể và rõ ràng hơn, trong khi đó, niềm tin tạo nên sức mạnh để hoàn thành mọi lý tưởng đặt ra. Đây được coi là 2 “động lực ý thức” vô giá mà mỗi tổ chức nên tạo được cho viên chức của mình.

Được xác nhận

Trong một đơn vị hay tổ chức, nhân viên luôn muốn sự cống hiến của mình được mọi người được đánh giá và xác nhận. Bất cứ ai cũng sẽ thất vẳng giả dụ sau tất cả những máu nóng và cố gắng, họ không được đánh giá và công nhận.

Không hoàn toàn vì phần thưởng hay ích lợi, đôi khi sự đánh giá và công nhận chỉ là một biểu hiện của sự quan hoài. Ngoại giả, đối với nhân sự, đó chính là phần thưởng quý giá, là thành quả đạt được từ những nỗ lực mà họ bỏ ra. Thậm chí, một lời cảm ơn từ sếp, một lời khen thành tâm trước mặt những nhân viên khác … cũng là một phần thưởng “to lớn” đối với viên chức.

Phân công đúng người đúng việc

Mỗi một vị trí làm việc là một động lực ảnh hưởng giúp nhân sự áp dụng khả năng, trí óc của mình vào công việc. Do đó, nhà lãnh đạo cần phải xem xét kỹ lưỡng, chỉ ra lợi thế, khó khăn trong mỗi công tác. Đồng thời, bố trí, cắt cử công việc cho phù hợp với nhân viên, góp phần phát huy những sở trường sẵn có và tạo nên sự thoải mái trong công việc .

Đảm bảo đúng người đúng việc cũng là một trong những nguyên tố quan yếu nâng cao mối quan hệ giữa nhân sự và lãnh đạo.

Môi trường làm việc

Trong kinh doanh, môi trường làm việc luôn là một nguyên tố quan trọng. Do đó, việc tao ra một môi trường làm việc thích hợp, có nhiều thời cơ để học hỏi, phát triển, thăng tiến luôn là một đề nghị bắt buộc đối với các nhà quản trị. Đặc biệt là duy trì mối quan hệ giữa các nhân viên trong công ty, bởi đôi khi, thời kì họ dành cho công ty, cho đồng nghiệp còn nhiều hơn thời kì họ dành cho gia đình của mình.

Sẽ rất khó khăn khi một viên chức luôn phải đối mặt với những mối quan hệ khó chịu tại nơi làm việc, nơi không ai có thể hiểu họ và họ phải gồng mình lên để ngừa những đồng nghiệp “chơi xấu”. Hãy tạo cho họ cảm giác lặng tâm và thoải mái tại nơi làm việc. Một môi trường làm việc tốt cùng những mối quan hệ thân thiết sẽ góp phần “giữ chân” nhân sự.

Linh hoạt thời kì

Mỗi viên chức đều có những vấn đề và những mối quan hệ ngoài công việc. Thỉnh thoảng, họ cũng có việc riêng cần giải quyết trong giờ làm. Đó có thể là đến trường đón con hay vào viện thăm người ốm ... Hãy tạo điều kiện giúp đỡ nhân viên của bạn khi cần. Nhất mực nhân sự của bạn rất cảm kích và “dấn thân” làm việc để đạt được kết quả tốt nhất như bạn đợi mong.

Văn hóa đơn vị

Văn hóa cơ quan bao gồm toàn bộ các nhân tố từ bầu không khí, đội ngũ cán bộ công nhân sự đến mạng lưới khách hàng của công ty. Văn hóa doanh nghiệp sẽ quyết định đến cách ứng xử của nhân viên, cũng như hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.

Không ai khác, chính những người đứng đầu tổ chức phải có trách nhiệm xây dựng và duy trì văn hóa, sứ mạng, niềm tin cũng như giá trị mấu chốt của công ty.

Thông tin giao thông

Một màng lưới quan hệ xã hội rộng sẽ là yếu tố quyết định đến thành công của đơn vị. Một công ty chỉ mạnh khi nó tạo được cầu nối gắn kết tất cả mọi thành viên, mọi mối quan hệ cả bên trong lẫn bên ngoài.

Nhàn Lê (tổng hợp) (Khampha.Vn)

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét